Trước những thảo luận về Việt Nam nên có bao nhiêu tỉnh, thành, GS.TS. Vũ Minh Giang cho rằng “không thể nói tùy tiện” bởi các cơ quan, người có trách nhiệm hiện nay có đủ chuyên môn, nghiên cứu khoa học và tham vấn ý kiến chuyên gia để đưa ra phương án cuối cùng phù hợp nhất.
“Gia cố tổ chức bộ máy là yêu cầu tiên quyết để đất nước phát triển nhanh hơn nữa. Và tôi tin nhân dân cũng rất ủng hộ chủ trương hiện nay”, GS.TS. Vũ Minh Giang tin tưởng.
Nguyên Thứ trưởng Bộ Nội vụ Nguyễn Tiến Dĩnh nói rằng, năm 1976 nước ta chỉ có 38 tỉnh thành, sau đó tách ra thành nhiều tỉnh, thành hơn vì điều kiện đi lại khó khăn, công nghệ, cơ sở hạ tầng chưa phát triển.
Việc đặt tên các tỉnh sau sáp nhập tới đây, theo ông Dĩnh, phải theo điều kiện hiện nay, bởi có nơi có thể nghiên cứu trở lại tên gọi như trước do phù hợp nhưng có chỗ không thể.
Thành phố Vĩnh Yên, Vĩnh Phúc (Ảnh: Cổng TTĐT Vĩnh Phúc).
“Mỗi giai đoạn có những yêu cầu khác nhau, trải qua quá trình lịch sử phát triển khác nhau nên không thể trở về tỉnh cũ, tên gọi cũ. Phải nghiên cứu cụ thể, theo từng khu vực một liền kề nhau ở biên giới, miền núi, trung du, đồng bằng, ven biển có nhiều nét tương đồng về địa lý, khí hậu, phong tục tập quán, truyền thống”, ông Dĩnh cho hay.
Theo quy định hiện hành, đối với các tỉnh, quy mô dân số tối thiểu phải là 900.000 người trở lên (đối với tỉnh miền núi, vùng cao) và từ 1,4 triệu người trở lên (với các tỉnh, thành còn lại).
Về diện tích, tiêu chuẩn đối với các tỉnh tối thiểu là từ 5.000km² trở lên. Các tỉnh miền núi, vùng cao tiêu chuẩn diện tích là 8.000km².
Tiêu chuẩn về số đơn vị cấp huyện trực thuộc của đơn vị hành chính cấp tỉnh tối thiểu là 9 đơn vị trở lên.
Thống kê cho thấy hiện nay có hàng chục địa phương trên cả nước thiếu 1-2, thậm chí cả 3 tiêu chí về diện tích, dân số và số đơn vị hành chính cấp huyện như trên.
Định hướng về đề án sáp nhập tỉnh, mới đây Bộ Chính trị, Ban Bí thư cho rằng ngoài căn cứ về quy mô dân số, diện tích, cần nghiên cứu kỹ quy hoạch tổng thể quốc gia, quy hoạch vùng, quy hoạch địa phương, chiến lược phát triển kinh tế – xã hội, phát triển ngành.
Bên cạnh đó phải tính đến việc mở rộng không gian phát triển, phát huy lợi thế so sánh, đáp ứng yêu cầu phát triển đối với từng địa phương và yêu cầu, định hướng phát triển của giai đoạn mới… làm cơ sở, căn cứ khoa học trong sắp xếp.
Bộ Chính trị, Ban Bí thư yêu cầu trình đề án ra Ban Chấp hành Trung ương Đảng (qua Ban Tổ chức Trung ương) trước ngày 7/4.